Ẩn cư giữa núi rừng
Một buổi sáng mây phủ, nằm trong chiếc lều ở độ cao 1800m, ông Trần Kim Sơn (62 tuổi, quê TP.HCM) ghi lại những khoảnh khắc vừa trải qua giữa rừng bằng chiếc điện thoại thông minh.
Bất chợt, cơn mưa đá ập đến “giã” những viên đá to bằng đầu ngón tay lên mái lều đã cũ. Ông thu mình, thản nhiên ngắm cơn mưa, mặc kệ từng trận gió ầm ào như muốn xé toang trời đất.
Bốn tuần qua, kể từ ngày rời phố thị lên đỉnh núi Bà (Langbiang, tỉnh Lâm Đồng) ẩn cư, mưa to, gió giật ở ngọn núi thiêng này sớm đã trở thành người đồng hành của ông.
![]() |
Nơi đây ẩm ướt, nhiều mưa và sương mù... |
Ông nói, ông biết đến và leo ngọn Langbiang cách đây khoảng 30 năm. Tuy nhiên, ông chỉ mới xem ngọn núi này như một chốn thân thiết từ 5 năm trước. Tháng 7 vừa qua, khi những ảm đạm từ đại dịch bao phủ nhiều nơi, ông muốn lên núi sống ẩn cư như đã từng khi còn là một hướng đạo sinh.
“Đà Lạt chưa có dịch, nhưng tôi đã chán cảnh dưới phố. Và, vì vài mục đích khác nhau, chủ yếu là tự huấn luyện, rút tỉa kinh nghiệm để chuẩn bị cho chuyến đi cuối năm với chuyên đề Leo và cắm trại trên các ngọn núi cao vùng Tây Bắc, tôi quyết định lên đỉnh núi Bà sống”, ông Sơn kể.
Chuyến đi dài ngày nhưng ông và bạn chuẩn bị rất sơ sài. Hành lý của ông chỉ là chiếc lều nhỏ, đôi bộ áo ấm, cái nồi nhôm, điện thoại thông minh đời cũ. Lúc đầu, ông dựng lều ở độ cao 2000m để “treo” mình cùng bồng bềnh mây phủ, sương mù.
![]() |
Ông và bạn đồng hành quyết định dời lều trại xuống độ cao 1800m để tìm nắng và sự khô ráo. |
Dù đang giữa mùa hè, nhiệt độ về đêm ở đây chỉ khoảng 10 độ C. Đã thế, Đà Lạt mùa này thường chìm trong những cơn mưa rừng xối xả, lạnh tê người. Có đêm, dù đã nhiều năm sống kiểu du mục nhưng ông vẫn bị tiếng mưa gió gào thét làm cho sợ hãi.
Đó là nỗi sợ không biết chiếc lều lúc nào sẽ bị bật tung bởi những cơn gió mạnh trên vùng núi cao gần 2000m. Thậm chí, ông từng tự nhủ nếu rơi vào hoàn cảnh ấy, ông cũng chẳng biết phải xoay xở thế nào cho ổn ngoài việc chịu cảnh ướt như chuột lột, co rúm người trong gió rét thấu xương.
Cũng may, từ rất lâu rồi, ông đã thích nghi với cái lạnh và sự ẩm ướt của Langbiang nên vẫn chịu được. Ông không còn sợ những cơn mưa rừng hoang lạnh. Ngược lại, với ông, chúng mang lại những thi vị cuộc sống.
![]() |
Đến nay, ông đã lên núi sống được hơn 4 tuần. |
Ông nói: “Mưa rừng nào chỉ mang đến cảm giác cô đơn và sự buốt giá cho những tâm hồn nhạy cảm. Chúng còn mang lại nguồn nước uống quý giá cùng với cơ hội được tắm trong sự sảng khoái”.
“Chúng giúp cho cơ thể được sạch sẽ và tâm hồn như được giải thoát khỏi mọi lo âu, căng thẳng của mùa dịch. Nhờ vậy, chỉ cần vài ngày sống cùng ngọn núi cao cũng đủ giúp cho tâm hồn lẫn thể xác của khách lữ hành như được làm mới để được trở thành một con người khác, một người yêu hơn cuộc đời của chính mình”, ông chia sẻ thêm.
Ít ngày trước, để tránh xa vùng sương mù, mưa nhiều, ông và bạn quyết định dời lều trại xuống khu vực có độ cao 1800m. Nơi đây có nhiều nắng, khô ráo nên ông cảm thấy dễ chịu và việc nấu nướng cũng dễ dàng hơn.
![]() |
Từng là hướng đạo sinh, ông dễ dàng vượt qua thời tiết khắc nghiệt nơi rừng thiêng núi thẳm. |
Tâm hồn hòa nhập cùng nhịp sống tự nhiên
Sống giữa núi rừng, khái niệm về thời gian của ông dần nhạt nhòa. Ông và bạn đồng hành đã chấp nhận thực tế “sẽ còn phải sống lâu dài trên ngọn núi thiêng của người Lạch (một nhánh của dân tộc K’Ho) này cho đến khi đại dịch Covid-19 qua đi dù chưa biết bao giờ ngày đó mới đến”.
Thời gian này, những chuyến xuống núi mua thực phẩm của ông cũng thưa dần. Thay vào đó, ông siêng năng hơn trong việc đi khắp rừng tìm kiếm những loại rau, trái cây mà người Lạch “bật mí” rằng không chỉ ăn được mà còn rất tốt cho sức khỏe. Ông nói: “Thức ăn ở rừng núi không có nhiều như thiên hạ hay kháo nhau”.
“Ngoài thực phẩm được mua từ dưới núi, chúng tôi còn bổ sung thêm bằng các loại rau rừng thường có khá nhiều vào mùa mưa. Săn thú thì bị cấm, mà tôi cũng chẳng bao giờ có can đảm giết hại các sinh vật của Langbiang. Thay vào đó, tôi đi khắp nơi tìm kiếm những loại rau rừng mà những người Lạch mách rằng chúng không chỉ ăn rất ngon mà còn là bổ dược”, ông nói thêm.
![]() |
Chỉ với những vật dụng cơ bản, ông đã trải qua 4 tuần sống giữa rừng hoang không điện nước, tiện nghi của cuộc sống hiện đại. |
Nhiều tuần trôi qua, cuộc sống giữa núi rừng bào mòn sức khỏe ông. Chúng hiện hữu trên “vòng eo không ngừng teo tóp”, “những cơn thở dốc khi vượt đèo đi lấy nước suối”, “đôi vai, bước chân mau mỏi”, "thời gian ngồi nghỉ giữa đường nhiều hơn” của ông.
Dẫu vậy, ông vẫn lạc quan, yêu ngọn núi và chưa từng có ý định xa rời nó dù chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Ông chia sẻ: “Trải qua nhiều ngày đêm sống cùng sương gió, giá rét, chúng tôi nhận thấy rằng chế độ ăn uống như nhà tu hành cũng không đến nỗi nào. Sức khỏe tinh thần và thể chất chỉ bị bào mòn đôi chút”.
“Nhưng ông trời cũng công bằng. Ông vẫn ban cho chúng tôi tình yêu cuộc sống và tình yêu thiên nhiên mỗi ngày. Nhờ vậy, chúng tôi vẫn cảm thấy thân thiết với ngọn núi này như ngày nào và chưa từng có thoáng nghĩ muốn rời xa nó. Tâm hồn lữ khách dường như đã hoàn toàn hòa nhập với nhịp sống của thế giới tự nhiên”, ông nói thêm.
![]() |
Hiện nay, những chuyến ông xuống núi mua thực phẩm ít dần. Thay vào đó, ông luồn rừng tìm rau, trái để làm thức ăn. |
Bây giờ, với ông, mỗi ngày lang bạt cùng mây gió giữa núi rừng là những hoạt động đầy niềm vui, mang đến cho ông lòng tin yêu vào cuộc sống. Thậm chí, đôi khi với ông, đó còn là “những cảm giác ly kỳ, hấp dẫn khi lỡ bước đi vào những con đường mòn bí hiểm của dân thợ săn và bắt gặp vài chiếc bẫy cũ mèm”.
Hiện, ông đã trải qua 4 tuần sống trên đỉnh núi và quen dần với những cơn mưa rừng ầm ào kéo về trong gió thốc lạnh buốt. Và, những cơn mưa ấy bây giờ chỉ đem lại cho ông cảnh "ngàn thông trở nên xanh mướt, hàng chục loài nấm sau mỗi đêm thi nhau vươn khỏi mặt đất, những trái cây chín mọng…”.
![]() |
Ông nói, hiện tâm hồn ông đã hòa nhập cùng nhịp sống của tự nhiên. |
Ông chia sẻ: “Trong lúc cả thế giới đang phải sống những ngày u ám bởi sự đe dọa đáng sợ của Covid-19, buổi sáng trên Langbiang vẫn là những ngày đẹp trời như chẳng biết đến chuyện thế gian”.
“Buổi sớm tinh mơ, sương mù vẫn còn rải rác khắp núi rừng. Ánh ban mai dần đến như muốn ban phát nguồn sinh lực mới cho những lữ khách đã chịu đựng suốt đêm dài mưa gió. Những món quà của thiên nhiên luôn là những gì thuần khiết và bất ngờ nhất. Tại sao không tìm cho mình những món quà đặc biệt đó một cách đơn giản nhất?”, ông chia sẻ thêm.
Bài: Nguyễn Sơn
Ảnh: Nhân vật cung cấp
Điện chập chờn, Internet yếu, Grace Riley và Ryan Sullivan vẫn hài lòng với cuộc sống yên bình trong ngôi nhà nhỏ di động của mình.
" alt=""/>Người đàn ông 62 tuổi lên núi Bà sống đời du mục suốt 4 tuầnMười anh chị em tôi đều học bơi như vậy. Đó cũng là cách hầu hết trẻ ở vùng sông nước miền Tây tập bơi. Phụ huynh đều như những người thầy. Họ không học qua trường lớp, chỉ dạy lại thế hệ sau bằng kinh nghiệm. Vậy mà, đứa trẻ nào ở xứ tôi khi ấy cũng bơi giỏi, tắm sông ngụp lặn ngày này qua ngày nọ, hiếm khi nghe có chuyện đuối nước.
Ba tôi nói, khi một đứa trẻ biết đi, cha mẹ đã phải nghĩ đến chuyện tập bơi cho nó. Bởi ở miệt sông nước, chỉ một sơ suất nhỏ, hậu quả cũng khó lường. Miền Tây quê tôi trước đây mỗi năm bị ngập trong mùa nước nổi đến mấy tháng trời. Khi đường sá, nhà cửa ngập hết, chuyện biết bơi là một kỹ năng sinh tồn tất yếu.
Nhưng hiện nay, khi mùa nổi hầu như hiếm khi xuất hiện ở miền Tây, những ca đuối nước ở quê tôi lại xảy ra thường xuyên hơn.
Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, trung bình mỗi năm Việt Nam có hơn 2.000 trẻ em tử vong do đuối nước, cao hơn các nước trong khu vực Đông Nam Á và gấp tám lần so với các nước phát triển. Tỷ lệ trẻ em biết bơi ở độ tuổi tiểu học và trung học cơ sở chưa đến 30%.
Quan sát các vụ đuối nước gần đây, tôi thấy đa số là những vụ tử vong tập thể. Các nhóm trẻ thường đi chung với nhau, nếu một em chẳng may gặp nguy hiểm dưới dòng nước, những em còn lại theo phản xạ sẽ lao theo cứu giúp. Bản năng sinh tồn khiến những đứa trẻ có thể ôm hoặc ghì chặt bạn mình, người này kéo người kia xuống. Nếu không được trang bị kỹ năng cứu hộ, một người dù bơi lội giỏi cũng không thể cứu người chết đuối, mà có thể cùng trở thành nạn nhân.
Nguyên nhân các vụ đuối nước được xác định là do trẻ thiếu sự giám sát của người lớn khi cùng bạn bè đi tắm, đi bơi, đi chơi ở sông suối, ao hồ hoặc do bị chìm đò, chìm ghe xuồng trên đường đi học, đi lao động. Tuy nhiên, nguyên nhân cốt lõi nằm ở chỗ nhiều trẻ hiện nay không được học bơi, không có kiến thức và kỹ năng nhận ra sự nguy hiểm cũng như sinh tồn trong môi trường nước.
Bạn tôi, trước đây từng làm thuyền trưởng phà Mỹ Thuận, phà Vàm Cống rồi phà Đình Khao, mới về hưu. Khi còn công tác, anh thường bơi ngang qua sông Tiền, sông Hậu, hay sông Cổ Chiên, từng cứu nhiều người dân chìm ghe xuồng sắp chết đuối giữa dòng nước dữ. Nhận ra sự nguy hiểm của môi trường sông nước, khi về hưu, anh dốc sức dạy bơi miễn phí cho những đứa trẻ ở Tiền Giang quê anh. Thế nhưng, nhiều phụ huynh không chịu cho con em đi học, kể cả những lớp miễn phí. Người lớn còn không ý thức đúng đắn về vấn nạn đuối nước để định hướng cho con em, thì nói sao những đứa trẻ bây giờ thờ ơ với chuyện học bơi.
Mỗi mùa hè đến, sau những vụ đuối nước, nhà trường thường là nơi "chịu đòn" với các chỉ trích như: thiếu chương trình dạy bơi, thiếu đào tạo kỹ năng sinh tồn cho trẻ... Rõ ràng, rất cần đưa bơi lội thành môn bắt buộc trong chương trình giảng dạy ở trường học. Nhưng thực tế ai cũng nhìn thấy, là nhà trường đang gặp những khó khăn không thể khắc phục một sớm một chiều để phổ cập ngay kỹ năng bơi lội cho trẻ. Họ thiếu giáo viên, thiếu kinh phí, kể cả cái bể dạy bơi cũng không có... Mọi khó khăn đều có thể khắc phục nhưng khi mọi thứ trong tay đều thiếu, việc khắc phục sẽ cần rất nhiều thời gian.
Thống kê trên của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cũng cho biết, hơn 55% trẻ em tử vong do đuối nước sống ở các hộ gia đình nghèo, chủ yếu ở khu vực nông thôn. Trẻ nông thôn có nguy cơ bị đuối nước cao gấp hai lần trẻ em ở thành thị. Để dạy bơi, các trường học nông thôn cũng gặp khó khăn gấp bội so với các trường thành thị.
Không thể duy trì thói quen đổ lỗi mọi điều cho giáo dục, không thể phó thác hoàn toàn trách nhiệm phổ cập bơi lội cho nhà trường. Trong khi chờ bơi lội được phê duyệt là môn học bắt buộc, chờ trường học khắc phục khó khăn, trẻ vẫn đi bơi và đối diện với cái chết hàng ngày mỗi mùa hè đến.
Trương Chí Hùng
Trở lại Góc nhìnTrở lại Góc nhìn" alt=""/>Phó thác cho giáo dục